DI SẢN THIÊN NHIÊN
VỊNH
HẠ LONG
Là
bức tranh sơn thủy hùng vĩ tuyệt đẹp nằm trong Vịnh Bắc
bộ, gồm 1969 đảo lớn nhỏ trải dài trên 120km bờ biển với
tổng diện tích 1553km2. Trong đó, vùng được thế giới công
nhận có diện tích là 434km2, bao gồm 775 đảo.
Các đảo có nhiều hình dáng vô cùng độc đáo, sinh động
và biến hoá theo từng góc nhìn của du khách: hòn Ông Lã
Vọng, hòn Cánh Buồm, hòn Cặp Gà, hòn Lư Hương... Trong lòng
các đảo ẩn chứa hàng trăm hang động kỳ thú,tuyệt đẹp như:
động Thiên Cung, động Sửng Sốt, hang Đầu Gỗ... Nơi đây là
một trong những cái nôi của con người có nền văn hoá Hạ
Long từ hậu kỳ đồ đá mới và cũng là nơi quần tụ nhiều hệ
sinh thái rừng và biển đa dạng với hàng ngàn loài động,
thực vật vô cùng phong phú, có những loại đặc biệt quý hiếm.
Vịnh Hạ Long đã được Hội đồng Di sản thế giới UNESCO ghi
tên vào danh sách di sản thiên nhiên thế giới vào ngày 17/12/1994
tại Thái Lan.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
ĐỘNG
PHONG NHA – KẺ BÀNG
Tại kỳ họp lần thứ 27 Ủy ban Di sản thế giới tổ chức tại
Paris (từ ngày 30/6 – 5/7/2003), Vườn quốc gia Phong Nha
– Kẻ Bàng đã được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
Nằm ở vùng rừng nguyên sinh và núi đá vôi Kẻ Bàng thuộc
tỉnh Quảng Bình, Động Phong Nha là một hệ thống hang động
lộng lẫy, lung linh, huyền ảo sắc màu nhũ đá soi bóng trên
con sông ngầm dài nhất Việt Nam. Động Phong Nha có rất nhiều
nhánh, dài lên đến khoảng 20km, cửa động rộng khoảng 20m,
cao 10m. Động chính gồm 14 buồng nối liền bởi một hành lang
nước dài 1500m, đi sâu hơn vào trong động còn có những nơi
mà quá trình phong hoá đá vôi đang tiếp tục.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Đầu trang
DI SẢN VĂN HÓA - LỊCH SỬ
CỐ
ĐÔ HUẾ
Quần
thể kiến trúc cổ của cung đình Huế được UNESCO công nhận
là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1993. Đây là
một tập hợp thành quách (Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm
thành) và hàng trăm cung điện, lăng tẩm , quan thự, nhà
vườn, đền miếu, chùa chiền... trải rộng hơn 20.000ha đất
trên bờ Bắc Sông Hương, ghi lại dấu tích của một cố đô Nhà
nước Phong kiến Việt Nam trong suốt hơn 400 năm trước khi
đất nước chuyển sang thời kỳ Pháp thuộc. Công trình quí
giá này gồm hơn 100 tác phẩm kiến trúc, nổi tiếng nhất là
bốn ngôi lăng mang phong thái riêng của bốn vị vua - chủ
nhân của nó: lăng Gia Long uy nghi, lăng Minh Mạng oai phong,
lăng Tự Đức thơ mộng và lăng Khải Định tráng lệ.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
PHỐ
CỔ HỘI AN
Là
một thương cảng sầm uất bên bờ sông Thu Bồn từ thế kỷ 16,
17 giao thương với nhiều nước trên thế giới: Nhật Bản ,Trung
Quốc, Bồ Đào Nha, Ý... Phố cổ Hội An đã từng là trung tâm
buôn bán thịnh vượng trong vùng Đông Nam Á và là một trạm
chính của các thương thuyền vùng Viễn Đông. Do đó, Hội An
có những nét giao thoa văn hoá đặc sắc, vừa có sắc thái
dân tộc truyền thống trong những nếp nhà gỗ cổ xưa vừa có
nét văn hoá du nhập như đèn lồng… từ Trung Quốc, Phù Tang…...
Khó có thể tìm thấy ở nơi đâu trên mảnh đất Việt Nam này
một không gian lắng đọng, hoài cổ như nơi đây.
Phố cổ Hội An còn nổi tiếng với hàng ngàn cửa hàng bày
bán đồ lưu niệm và các món ăn đặc sản mang phong vị xứ Quảng:
bánh Bo, bánh Vạc, Cao lầu. Từ những giá trị riêng biệt
đó, Đô thị cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn
hoá thế giới vào tháng 12/1999.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
THÁNH
ĐỊA MỸ SƠN
Ẩn
mình trong vùng thung lũng kín đáo thuộc xã Duy Phú, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, thánh địa Mỹ Sơn là một quần
thể hội tụ hơn 70 đền tháp được xây dựng theo trường phái
Ấn độ giáo bằng gạch nung và đá sa thạch suốt hơn 1000 năm
để thờ phụng những vị thần bảo hộ cho các vị vua Vương quốc
Chămpa. Mỗi đền tháp thờ những vị thần, vị vua khác nhau,
mang dấu ấn kiến trúc và thời kỳ lịch sử khác nhau, nhưng
tựu trung đều thiết kế trên một mặt bằng tứ giác, chia làm
3 phần: đế tháp biểu hiện thế giới trần gian, vững chắc,
thân tháp biểu tượng cho thế giới thần linh kỳ bí và phần
đỉnh tháp với nhiều hình tượng người đang thực hiện nghi
lễ tôn giáo, cây lá, chim muông. Đền thờ chính thờ Linga
– Yoni biểu tượng của năng lực sáng tạo. Mặc dù qua thời
gian và chiến tranh nhưng khu phế tích Mỹ Sơn vẫn thu hút
du khách bởi những kiệt tác điêu khắc, kiến trúc của một
thời đại huy hoàng trong lịch sử mỹ thuật dân tộc Chăm.
Thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
thế giới vào tháng 12/1999.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
DI SẢN VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ
NHÃ
NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể vào
tháng 11/2003. Nhã nhạc cung đình Huế là loại hình âm nhạc
truyền thống đặc sắc của Việt Nam được diễn xướng chốn cung
đình để phục vụ trong các nghi lễ, hội họp, nhưng hiện nay
chỉ còn tồn tại đại nhạc và tiểu nhạc. Nhã nhạc cung đình
Huế có sắc thái riêng, rộn ràng, uyển chuyển mà trầm hùng,
uy nghiêm... Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Nhã nhạc
cung đình Huế vẫn duy tôn được những giá trị đáng kể: nhạc
khí đa dạng, sắp xếp dàn nhạc tinh vi, nhạc ngữ độc đáo,
bài bản dồi dào và quan điểm thẩm mỹ sâu sắc.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
CỒNG
CHIÊNG TÂY NGUYÊN
Ngày
25/11/2005 "Văn hoá cồng chiêng các dân tộc Tây Nguyên
– Việt Nam" được UNESCO trân trọng công nhận là kiệt
tác di sản phi vật thể của thế giới. Cồng chiêng là loại
hình nghệ thuật độc đáo của các dân tộc thiểu số vùng Tây
Nguyên, ra đời và gắn liền với đời sống cộng đồng của các
dân tộc. Theo các tài liệu nghiên cứu, cồng chiêng ra đời
từ rất lâu, có thể song hành với nền văn hoá Đông Sơn cách
nay khoảng 3000 năm. Hầu hết các dân tộc miền Cao Nguyên
đều sử dụng hai loại nhạc cụ truyền thống này vào các dịp
lễ hội, đón năm mới, mừng nhà mới, cầu vụ mùa... của làng
bản. Cồng chiêng đều có hình tròn, cái có núm gọi là cồng
(kuồng), cái không có núm gọi là chiêng (ching, cing), đường
kính từ khoảng 20 – 65 cm. Mỗi bộ chiêng gồm 6 chiếc từ
lớn đến nhỏ có tên gọi là Vàng, Rđơm, Dờn, Thoòng, Thơ và
Nê. Trong dàn nhạc các dân tộc Cao Nguyên, mỗi nhạc công
chơi một nốt và một mô hình tiết tấu, kết hợp thành bè,
thành giai điệu. Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên
giờ đây không còn chỉ bó hẹp trong các bản làng dân tộc
mà đã được mở rộng ra thế giới như là một kiệt tác truyền
khẩu phi vật thể của nhân loại.