Địa
chỉ: 7 Công trường Lam Sơn, P.BN, Q.1
Nằm ở điểm cuối Lê Lợi, tọa lạc trên con
đường Ðồng Khởi - trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh
là hai khách sạn lớn Caravelle và Continental.
Nhà hát được xem như một công trình văn
hóa tiêu biểu và tốn kém nhất ở Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Xây cất từ năm 1898 do kiến trúc sư Ferret thiết kế, theo
phong cách Barốc thời Đệ tam Cộng hòa Pháp đặc biệt với
nhiều tác phẩm trang trí mặt tiền đặt làm từ bên Pháp chở
sang. Khánh thành vào ngày 1/1/1900, nhằm truyền bá văn
hóa Pháp. Bố cục bắt chước theo kiểu nhà hát kịch Opéra
ở Paris, với phòng khán giả, sân khấu lớn, không gian phần
giải lao rộng rãi. Có thêm tầng hầm, mái gãy dạng Mansart,
trước lợp tấm đồng. Lúc đầu nhà hát hoạt động sôi nổi với
các đoàn hát từ chính quốc sang, sau bị ngành chiếu bóng,
nhà hàng, vũ trường cạnh tranh nên chỉ sinh hoạt cầm chừng
với các buổi ca hát, hòa nhạc và cải lương. Thời 1955 -
1975 dùng làm Hạ nghị viện, nay khôi phục lại làm nhà hát
thành phố nhưng qui mô quá nhỏ so với yêu cầu một Sài Gòn
quá lớn ngày nay.
Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh có kiến
trúc cổ kính, uy nghi với 1 tầng trệt, hai tầng lầu, 1.800
ghế, không khí thoáng, hệ thống âm thanh ánh sáng hiện đại.
Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh là nơi tổ chức biểu diễn sân
khấu chuyên nghiệp như: biểu diễn kịch nói, cải lương, ca
nhạc, múa ba lê, dân tộc, opera cho tất cả các đoàn nghệ
thuật trong và ngoài nước. Tại đây có thể tổ chức những
buổi mít tinh, kỷ niệm những ngày lễ lớn, các hội thảo chuyên
đề...
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 135 Nam Kỳ Khởi
Nghĩa, P.BT, Q.1
Hội
trường Thống Nhất – Dinh Ðộc Lập tọa lạc trên vùng đất rộng
gần 12 mẫu Tây. Khu đất được giới hạn bởi bốn con đường: Nam
Kỳ Khởi Nghĩa, Nguyễn Du, Huyền Trân Công Chúa, Nguyễn Thị
Minh Khai. Sau khi hạ Ðại Ðồn Chí Hòa năm 1861, với chiến
lược lâu dài trong việc thôn tính Việt Nam và Ðông Dương,
chính phủ Pháp bắt tay vào chỉnh trang đô thị sài Gòn và xây
dựng những công trình kiên cố. Dinh Norrodom (còn có tên gọi
là Dinh Toàn Quyền hay Dinh Thống Soái) được xây dựng theo
đồ án thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Hermite. Viên đá
đầu tiên được đặt khởi công cho công trình xây dựng dinh vào
ngày 23/2/1868 do Ðô đốc De La Grandière chủ tọa với sự tham
dự của nhiều quan chức Pháp – Việt. Theo sách của Jules Boissère
thì công trình này phải mất đến 21 năm cho quá trình xây dựng
và trang trí nội thất. Ðến năm 1889 dinh mới được khánh thành,
chi phí xây dựng lên đến 4 triệu Frans vàng. Hiệp định Genève
được ký kết, ngày 7/9/1954 dinh Norrodom được giao lại cho
chính phủ miền Nam Việt Nam và được đổi tên gọi là Dinh Ðộc
Lập, dùng làm phủ tổng thống chế độ Sài Gòn cũ. Ngày 27/2/1962,
dinh bị ném bom làm sập hoàn toàn phía trái Dinh Ðộc Lập.
Sau sự cố đó, chính quyền đã ra lệnh xây lại dinh này.
Tòa
nhà được khởi xây dựng ngày 01/7/1962 và được khánh thành
ngày 03/10/1966. Theo đồ án, tòa nhà có diện tích xây dựng
45.000m2 (rộng 21 gian 85m, sâu 19 gian 80m). Diện tích mặt
sàn sử dụng khoảng 20.000m2 , gồm ba tầng chính, hai gác lửng,
một sân thượng (có sân bay trực thăng) và một tầng nền. Tổng
số các phòng trong dinh là 95 phòng, không kể các khu vực
vệ sinh, hành lang và khách sảnh. Các phòng lớn bố trí cho
các công việc đối nội, đối ngoại nằm ở các tầng trệt và lầu
1, lầu 2. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cho biết “xây dựng dinh
tốn khoảng 150.000 lượng vàng và mỗi quân nhân, nhân viên
chính quyền thời ấy phải đóng góp mỗi người một ngày lương”.
Một vài số liệu về vật liệu đã sử dụng bê tông cốt sắt độ
12.000m3 , gỗ quý 200m3 , kính cho các cửa 2.000m2 , đá rửa
và đá mài 20.000m2 …
Ở
thời điểm nào, tòa nhà cũng là trung tâm đầu não của chính
quyền đương thời. Sự thay đổi tên gọi của tòa nhà sau mỗi
biến cố lịch sử (dinh Norodom: 1863 - 1954, dinh Thủ tướng:
9/1954 – 10/1956, dinh Ðộc Lập: 10/1956 - 1975, Hội trường
Thống Nhất từ 25/6/1976 đến nay) gắn liền với quá trình đấu
tranh chống ngoại xâm, giành độc lập, thống nhất đất nước
của dân tộc Việt Nam. Trưa ngày 30/4/1975, chiếc xe tăng mang
số hiệu 390 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn II đã húc
đổ cổng sắt dinh Ðộc Lập, đoàn xe tăng quân giải phóng nối
đuôi nhau tiến vào dinh 11 giờ 30 cùng ngày lá cờ Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên kỳ đài
của Dinh. Với những ý nghĩa lịch sử trọng đại đó, tại kỳ họp
thứ nhất của Quốc Hội khóa VI, ngày 25/6/1976 Dinh Ðộc Lập
đã được đổi tên thành Hội trường Thống Nhất và được đặc cách
xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 77A-VHQÐ
ngày 25/6/1976.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 86 Lê Thánh Tôn, P.BN, Q.1
Nằm trên một khu đất
rộng giới hạn bởi đường Pasteur (phía tây), Lý Tự Trọng (phía
bắc), Đồng Khởi (phía đông) và Lê Thánh Tôn (phía nam). Thời
Pháp thuộc, nơi đây có các tên gọi là dinh Xã Tây, dinh Đốc
Lý, là trụ sở làm việc của Hội đồng thành phố. Về sau được
đổi tên là Tòa thị sảnh. Giai đoạn từ năm 1954 - 1975, gọi
là Tòa đô chính Sài Gòn. Sau 30/4/1975 cho đến nay là trụ
sở của UBND TP.HCM.
Việc xây cất tòa
nhà này được các quan chức thực dân lưu ý đến từ năm 1871
và các năm sau đó. Nhưng mãi đến năm 1898 mới được chính thức
khởi công xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Gardès. Phần
trang trí tòa nhà lúc đầu định làm theo bản vẽ của họa sĩ
Ruffier, nhưng sau lại được giao cho họa sĩ Bonnet. Năm 1909,
tòa nhà được khánh thành.
Tòa nhà có cấu trúc
khá đơn giản nếu nhìn về đại thể. Phần chính giữa là tháp
nhọn nhô cao, hai bên có hai tầng mái cân đối. Hai phía trái,
phải tòa nhà thấp hơn một chút. Phần trang trí, ngoài các
họa tiết, có 3 bức tượng đắp nổi. Đó là tượng một phụ nữ và
một đứa bé đang chế ngự bầy thú dữ (ở giữa) và hai phụ nữ
khác trong tư thế cầm gươm (ở hai bên trái, phải). Tòa nhà
này vào loại lớn và xưa của Sài Gòn, cách đây 100 năm. Thuở
ấy, phía trước nhìn ra cảng Bến Nghé còn là một khoảng không.
Nay là đại lộ Nguyễn Huệ.
Là trụ sở của UBND
TP.HCM, nơi đây đã ghi dấu những sự kiện lịch sử. Cuộc biểu
tình lớn của đồng bào đòi công ăn việc làm năm 1937. Cuộc
mít tinh của nửa triệu người nhân lễ ra mắt của Ủy Ban Hành
Chính lâm thời Nam Bộ ngày 25/8/1945 (Pháp chiếm lại dinh
Đốc Lý sau 23/9/1945). Cuộc đấu tranh bãi công bãi thị ngày
9/1/1950. Nhiều cuộc mít tinh, tuần hành diễn ra trước tòa
nhà trụ sở UBND TP.HCM nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn sau
1975. Đặc biệt phía trước tòa nhà là vườn hoa cây cảnh,
nơi đặt bức tượng Bác Hồ với thiếu nhi của nhà điêu khắc Diệp
Minh Châu.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa chỉ: 1 Công
xã Paris, P.BN, Q.1
Mặt
tiền nhà thờ trông ra đường Nguyễn Du, lưng giáp đường Lê
Duẩn, hai bên hông là quảng trường Công xã Paris.
Khởi công ngày 7/10/1877 có diện tích rộng 35m, dài 93m,
đồ án thiết kế do kiến trúc sư Pháp Bonard thực hiện theo
kiểu Roman cải biên, mô phỏng nhà thờ Notre Dame của Paris
, nhưng nhỏ hơn và thuộc loại đẹp nhất trong số các nhà
thờ ở các nước thuộc địa của Pháp thời đó và giáo sĩ Colombert
đã đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nhà thờ, đến ngày 11/4/1880
thì khánh thành. Năm 1895,
nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6m và
hai tháp có 6 chuông đồng lớn nặng 25.850 tấn. Ðứng trước
nhà thờ là tượng Ðức mẹ Hòa Bình bằng cẩm thạch ý, cao 4,2m,
nặng 8,5 tấn làm tại Rome được dựng vào năm 1959. Tường
xây bằng gạch trần (không tô, phết) màu nâu đỏ đưa từ Marseille
sang. Những lỗ thông hơi xuyên thẳng vào tường rất khéo
trông như những hoa văn trên tấm lụa. Vào ngày 7 - 8/12/1959,
Tòa thánh Vatican đã có quyết định nâng nhà thờ Đức Bà lên
hàng Vương cung Thánh đường (Basilique). Hàng ngày, nhà
thờ có nhiều giờ lễ khác nhau. Đặc biệt, ngày chủ nhật vào
lúc 9 giờ 30, có lễ dành cho người nước ngoài.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: Đường Lê Thánh Tôn, P.BT, Q.1
Lúc đầu phố chợ Bến Thành ở phía Đông
huyện Bình Dương, nằm dọc theo sông Sài Gòn, trước thành
Phiên An (Gia Định) nên được gọi là chợ Bến Thành. Sau cuộc
khởi binh của Lê Văn Khôi (1833 - 1835), phố xá bị tàn phá,
chợ không còn sầm uất. Tháng 2/1859, Pháp chiếm Gia Định,
chợ bị thiêu hủy. Sau đó Pháp cho xây một nhà lồng chợ gọi
là chợ Vải, gần Tổng ngân khố. Tháng 7/1870 chợ bị cháy,
được xây lại bằng cột gạch, sườn gỗ, lợp ngói, có 5 gian.
Giữa năm 1911, ngôi chợ cũ bị phá bỏ,
dời về địa điểm gần ga xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Năm 1912,
lấp ao Boresse, xây chợ mới. Ngày 28/3/1914 khánh thành
chợ mới. Chợ trải qua nhiều lần trùng tu, lần mới nhất vào
tháng 6/1985, được sửa chữa lớn và nâng cấp nhà lồng chợ.
Trước mặt chợ có bùng binh mang tên Cuniac, tên của một
thị trưởng thời Pháp thuộc, sau 1963 đổi lại là công viên
Quách Thị Trang. Cửa chính của chợ có một tháp đồng hồ 3
mặt. Hai bên tả hữu có 3 nóc nhà chợ lợp ngói. Chợ có 4
cửa: Đông, Tây, Nam, Bắc mở ra 4 đường Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, Q.1. Đây là nơi chứng kiến
nhiều sự kiện lịch sử của thành phố và được xem là biểu
tượng của Sài Gòn.
Chợ Bến Thành là một khu trung tâm buôn
bán không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía
Nam. Hàng hóa trong chợ rất phong phú, dường như có đủ mặt
các sản vật trong nước và hàng công nghệ hiện đại trên thế
giới.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 2 Công xã Paris, P.BN, Q.1
Đây
là công trình kiến trúc có nhiều đặc trưng của phong cách
kiến trúc châu Âu kết hợp với châu Á. Được xây dựng từ 1886
và hoàn thành vào năm 1891 theo đồ án thiết kế của kiến trúc
sư Villedieu, tòa nhà đồ sộ này tọa lạc trên gò đất cao bên
hông Vương cung Thánh đường, phía sau là đường Hai Bà Trưng.
Mặt tiền được trang trí
với những bảng tên một số danh nhân Pháp như Laplace, Voltaire,
Arage ... Kiến trúc đơn giản, nhã nhặn, điểm tô bởi những
hoa văn như đầu rồng, tràng hoa, cây trái... theo từng ô hình
chữ nhật, ghi danh những nhà phát minh ra ngành điện tín và
ngành điện. Trên các ô có đắp hình các nam nữ đội vòng nguyệt
quế. Trên vòng cung ngôi nhà có chiếc đồng hồ lớn. Bước chân
vào phía trên trong, khách thấy hai bên tường cao là hai bản
đồ lịch sử: Saigon et ses environs 1892 và Lignes télégraphiques
du Sud Vietnam et du Cambodge 1936.
Ngày nay, xung quanh toà
nhà chính còn có nhiều công trình kiến trúc dùng để lắp đặt
máy móc, thiết bị bưu điện truyền tin hiện đại. Hiện bưu điện
có 35 quầy phục vụ khách hàng với những thiết bị viễn thông
tối tân, hiện đại có thể liên lạc với bất cứ nơi nào trong
nước và thế giới. Ngoài ra, còn có nhiều dịch vụ như bưu phẩm
ghi số hẹn giờ, phát chuyển nhanh, văn hóa phẩm lưu niệm,
điện hoa, điện quà.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.7, Q.3
Chùa lấy tên một tổ đình lớn ở miền Bắc
- chùa Vĩnh Nghiêm ở xã Ðức La, tổng Trí Yên, phủ Tạng Giang,
tỉnh Bắc Giang (nay là X.Trí Yên, H.Yên Dũng) - từng là
trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm, một
thiền phái mang đậm nét dân tộc Việt Nam, đã tổng hợp những
dòng thiền trước đó, đã tổ chức Giáo hội đầu tiên trong
lịch sử phật giáo Việt Nam, là mô hình Giáo hội đầu tiên
cho các tổ chức Giáo hội sau này. Chùa Vĩnh Nghiêm Ðức La
được kiến lập từ đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028), kiến
trúc thuần túy Á Ðông và đã được trùng tu nhiều lần. Cảnh
trí tôn nghiêm, tráng lệ hiện nay là nhờ lần trùng tu cuối
cùng, vào năm Thành Thái nguyên niên (1889), do Hòa Thượng
Thích Thanh Hanh đảm trách.
Chùa được khởi công xây dựng vào năm
1964, do kiến trúc sư Nguễn Bá Lăng vẽ kiểu, kỹ sư Bùi Văn
Tố thiết kế và do ban kiến thiết miền Vĩnh Nghiêm điều hành
thực hiện. Ðược sự đóng góp công đức của chư tôn Hòa Thượng,
chư Thượng tọa, Ðại Ðức Tăng, Ni và quý Phật tử nhất là
các vị nguyên quán Bắc Việt sống tại miền Nam, năm 1971,
3 công trình cơ bản đã được hoàn thành: Phật điện; Bảo tháp;
cơ sở văn hóa xã hội. Chùa có diện tích xây cất ước lượng
hơn 7.000 m2, trước đây là khu sình lầy bên cạnh rạch sông
Thị Nghè cũ, nên phải đổ 40.000m3 đất mới được như hiện
nay.
Chùa tọa lạc trên một khuôn viên rộng
thoáng, sát đại lộ. Tổng thể kiến trúc hoàn chỉnh gồm có
tam quan, chùa chính, tháp chuông, nhà phụ và ngọn bảo tháp
7 tầng cao 40m, sân rộng. Chánh điện được bài trí trang
nghiêm với pho tượng Phật lớn có nhiều hoành phi, câu đối
chữ Hán được khắc và trang trí đẹp. Các hương án, bao lam
cũng vậy. Nhiều bức tranh được vẽ và chú thích rõ ở hai
bên tường.
Tổ đình Vĩnh Nghiêm hiện nay không những
là nơi chiêm bái cho thiện nam tín nữ Phật tử mà còn là
thắng cảnh tham quan của khách du lịch trong cũng như ngoài
nước. Ðặc biệt, tổ đình Vĩnh Nghiêm còn là cơ sở của Trường
Cơ bản Phật học, Thư viện Phật học Thành Phố Hồ Chí Minh,
trú xú của 20 vị tăng, ni sinh miền Bắc đang theo học tại
Trường Cao cấp Phật học Việt Nam cơ sở 2. Hằng tuần, nơi
đây đều có những buổi giảng kinh cũng như thọ Bát quan trai
giới để hướng dẫn Phật tử trên con đường tu tập Thánh đạo.
Hằng năm, vào ngày mùng 8 - 12 Âm Lịch, ngày đức Phật thành
đạo, chùa Vĩnh Nghiêm đều tổ chức trọng thể lễ húy nhật
Hòa Thượng Thích Thanh Hanh (1838 - 1936), cố Thiền gia
pháp chủ Phật giáo Bắc Việt, được tôn xưng là tổ Vĩnh Nghiêm,
vị có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo vào
những năm đầu thế kỷ 20.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa chỉ: 118 Lạc Long Quân, P.10, Q.Tân Bình
Là
một trong những ngôi chùa cổ xưa nhất thành phố, chùa còn
có tên là Cẩm Sơn hoặc Cẩm Điện. Chùa được xây vào năm 1744
và năm 1744, Hòa thượng Viên Quang thuộc dòng Lâm Tế đến
trụ trì chùa và chùa được đổi tên là chùa Giác Lâm.
Chùa xây theo hình chữ Tam, gần
chánh điện, giảng điện và nhà giám trai. Ngoài nét cơ bản
của văn hóa Nam Bộ, kiến trúc, trang trí chùa còn pha lẫn
dáng dấp văn hóa ấn Độ, Khơme, Tây phương. Ngôi chùa hiện
nay có hình chữ nhật, dài 65m, rộng 22m. Chùa có cây bồ
đề lá xanh tốt do đại đức Narada đưa từ Sri Lanka trồng
ngày 18/3/1953 nhân dịp ngài sang Việt Nam tặng Xá Lợi Phật.
Phong cảnh nơi này đẹp như tranh với những vườn hoa và những
cây cao. Nhiều người đến đây để sáng tác và ngâm thơ. Chùa
được trùng tu nhiều lần: năm 1804 và 1909. Trên cổng có
ba chữ Giác Lâm Tự viết bằng chữ Hán. Chùa còn được gọi
là đình Giác Lâm vì có nhiều am với những người trụ trì
thuộc dòng họ Lâm Tế, con cháu của những người truyền và
phát triển đạo Phật ở Trung Quốc. Kiến trúc của chùa khá
đặc sắc, đặc biệt là những cột chùa to lớn, màu nâu đậm,
trên đó chạm những câu đối mạ vàng (có 143 cặp câu đối).
Bao lam của chùa chạm các loại hoa mai, hoa cúc và chín
con rồng. Chính điện thờ Phật Di Đà, dưới thờ Phật Thích
Ca, Di Lặc, hai bên thờ Quan Thế Âm và Thế Thái (Thế Chí).
Ngoài ra chùa còn có tượng Cửu Long, hai bên tường là Thập
Bát La Hán, Thập Điện Diêm Vương, Tổ Sư Đạt Ma và tượng
Long Vương. Có 113 pho tượng Phật bằng đồng và gỗ quí, đặt
thờ tại đây được khoảng 200 năm. Đặc biệt tượng Phật Địa
Tạng của chùa đẹp có tiếng.
Chùa được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn
hóa theo quyết định số 1288 - VH/QĐ ký ngày 16/11/1988.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 89B Bà Huyện Thanh Quan, P.7, Q.3
Chùa được khởi công xây
dựng vào ngày 5/8/1956 theo bản vẽ của các kiến trúc sư Trần
Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, công trường xây dựng do các kỹ sư
Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận điều khiển. Chùa được hoàn thành
vào ngày 2/5/1958. Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ
nên ban đầu có tên là chùa thờ Xá Lợi, người dân quen gọi
tắt là chùa Xá Lợi nên khi khánh thành hòa thượng Khánh Anh
đã đặt tên chùa là Xá Lợi cho hợp lòng người. Chùa là trụ
sở chính của Hội Phật học Nam Việt từ năm 1951 - 1981. Từ
năm 1981 - 5/1993 chùa là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam (Văn phòng 2).
Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng
theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng
đường. Cấu trúc của chùa bao gồm chánh điện thờ Phật, giảng
đường, tháp chuông, thư viện, tăng phòng, nhà trai đường,
văn phòng, đoàn quán, phòng phát hành kinh sách, phòng khách
và vãng sinh đường.
Chùa thờ một tượng Phật Thích Ca lớn do trường Mỹ Nghệ Biên
Hòa đắp tạo. Năm 1969 tượng được thếp lại toàn thân bằng vàng
như hình dáng ngày nay. Trước tượng Phật là nơi tôn thờ xá
lợi Phật đặt trong một tháp nhỏ. Chính điện ở tầng lầu được
trang trí bằng một bộ tranh lớn gồm 15 bức do giáo sư Nguyễn
Văn Long của trường Mỹ Thuật Gia Định thực hiện, miêu tả lịch
sử đức Phật Thích Ca từ lúc sơ sinh cho đến khi nhập Niết
Bàn.
Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành trong năm 1961. Tháp
chuông cao 32 mét, gồm 7 tầng, là tháp chuông cao nhất Việt
Nam [1]. Tầng cao nhất có treo một đại hồng chung nặng 2 tấn,
được đúc đồng theo mẫu của chuông chùa Thiên Mụ (Huế).
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 1 Nguyễn Tất Thành, P.12, Q.4
Tòa nhà có đôi rồng
gắn trên nóc, kiểu "lưỡng long chầu nguyệt" nên
thường được gọi là "Nhà Rồng", do vậy bến cảng thuộc
khu vực này cũng mang tên Bến Nhà Rồng.
Nơi đây, ngày 05/06/1911, người thanh niên Việt Nam yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau hơn 30 năm
bôn ba ở nước ngoài Nguyễn Tất Thành trở thành nhà cách mạng
lãnh đạo nhân dân Việt Nam đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng
8, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người thanh niên
ra đi tìm đường cứu nước năm xưa chính là Chủ tịch Hồ Chí
Minh sau này. Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh
- là một chi nhánh nằm trong hệ thống các bảo tàng và di tích
lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.
Nơi đây, trước ngày 30/4/1975 là trụ
sở của Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế (Messageries Impériales)
- một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây
dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Ngôi nhà được xây dựng từ
giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc
phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào
mặt trong theo kiểu "lưỡng long chầu nguyệt", một
kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến
trúc độc đáo đó nên Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế được gọi
là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến Cảng Nhà Rồng. Năm 1955,
sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển
giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý, họ đã tu sửa
lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai
con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài.
Ngoài những hoạt
động chính, bảo tàng còn tiến hành những hoạt động tuyên truyền
giáo dục rộng rãi như tổ chức các Hội nghị khoa học, các cuộc
tọa đàm giữa các thế hệ, nói chuyện chuyên đề về Chủ tịch
Hồ Chí Minh, giới thiệu và chiếu phim, tư liệu, hồi ký, các
ấn phẩm về Chủ tịch Hồ Chí Minh và về Bảo tàng, in lịch, tổ
chức kết nạp Đảng, Đoàn, Đội; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu
về tiểu sử, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh...,
bảo tàng còn là nơi hội họp, gặp gỡ lý tưởng của các tổ chức,
đoàn thể đến sinh hoạt truyền thống, học tập, vui chơi; là
nơi ra quân của nhiều phong trào cách mạng sôi nổi của thành
phố...
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa chỉ: Xã Phú Mỹ Hưng, H.Củ Chi
Ðịa đạo Củ Chi là một di tích lịch
sử cách mạng nổi tiếng, thuộc xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi,
cách trung tâm thành phố 70km về phía tây bắc.
Ðịa đạo quả là kỳ quan độc nhất vô nhị: dài 250km chạy ngoắt
ngoéo trong lòng đất, được làm nên từ dụng cụ thô sơ là
lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất. Ðường hầm sâu dưới đất từ
3 - 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn
hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn
nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu
15m, trong vắt. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương
sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau,
có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất
3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc
thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ.
Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8 - 10m hết sức an toàn.
Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp
hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những
ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với
địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí,
lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ
huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng
mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ...
Với giá trị và tầm vóc chiến công
được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến
sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ chi đã được Bộ Văn hóa
Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia.
Địa đạo Củ Chi nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người.
Khách trong nước và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu ngày
càng đông. Địa đạo Củ Chi trở thành điểm hẹn truyền thống
của các thế hệ Việt Nam và niềm kính phục của bạn bè thế
giới.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: 100 Đặng Văn Bi, P.Bình Thọ, Q.Thủ Đức
Nếu Hà Nội có chùa Một
Cột được xây dựng vào đời nhà Lý (đầu thế kỷ XI) thì Sài
Gòn có “Nam Thiên nhất trụ”(Trời Nam một trụ) gọi nôm na
là chùa Một Cột. Chùa do hòa thượng Thích Trí Dũng dựng
vào năm 1958. Đến đây, vừa tham quan chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của chùa, vừa thả hồn theo tiếng chuông mõ ngân vang, cảm
giác về sự uy nghiêm của hình tượng kiến trúc như chia sẻ,
hòa mình vào trời nước và màu xanh ẩn hiện của cây lá…,
bạn sẽ có được những phút “rũ sạch nỗi u phiền để đạt đến
sự thanh cao của tâm hồn”.
Theo tinh thần văn bia hòa thượng, dựng Nam Thiên Nhất Trụ
phải tuân thủ khuôn mẫu Thăng Long nhất trụ ở Hà Nội. Năm
1958, hòa thượng Thích Trí Dũng và các đệ tử của mình đã
lập nên chùa Một Cột ở miền Nam gọi là Nam Thiên Nhất Trụ.
Xây dựng chùa này với mục đích vừa là di tích lịch sử vừa
là danh lam thắng cảnh cốt để các tín ngưỡng phương Nam
chiêm ngưỡng lễ Phật, nhớ về cội nguồn tổ tiên, hun đúc
hy vọng quốc thái dân an, quê hương hưng thịnh.
Chùa Một Cột ở miền Nam được xây dựng theo kiến trúc của
các chùa chiền cổ ở miền Bắc, từ rui kèo, trính, xuyên,
mái ngói... đến những đường nét hoa văn bài trí cũng như
cách bố trí thờ phượng. Trụ chùa Một Cột đúc vĩnh cửu bằng
xi măng cốt thép; mái lợp ngói uốn cong như chùa Một Cột
Hà Nội, nhưng thấp và nhỏ hơn. Nhìn từ cổng tam quan, Nam
Thiên Nhất Trụ được xây dựng nằm giữa lòng hồ Long Nhãn
(hồ Mắt Rồng) rập rờn hoa sen với diện tích mặt hồ khoảng
hơn 600m2. Ngôi chùa được đặt trên một cột cao khoảng 12m.
Trên mặt hồ, ngôi chùa vươn lên với ý niệm cao cả, vừa tạo
nét gần gũi tinh khiết, vừa tạo nên không gian thanh tịnh.
Phía sau Nam Thiên Nhất Trụ là chánh điện, nhà Tú Ân, giảng
đường và nhà lưu niệm. Ngoài ra, chùa còn có tượng Đức Địa
Tạng đúc bằng 61kg kim loại quý, tượng Phật Di Đà đồ sộ,
tượng Phật Thích Ca ngồi thiền dưới cội bồ đề... để du khách
chiêm bái.
Đến đây, vừa tham quan chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa, vừa
thả hồn theo tiếng chuông mõ ngân vang, du khách sẽ cảm
thấy tâm hồn mình như lạc vào cõi thần thiên Phật pháp.
Và với vẻ đẹp hấp dẫn ấy, hàng năm, Nam Thiên Nhất Trụ đã
đón hàng trăm ngàn lượt khách trong và ngoài nước đến tham
quan, chiêm ngưỡng và khám phá nét độc đáo trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Sài Gòn - Gia Định.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: Xã Lê Minh Xuân, H.Bình Chánh
Chùa được xây dựng trên
một khu đất rộng hơn 10 hecta, trước mặt là cánh đồng thơm
(dứa) mênh mông. Năm 1955, chùa Thanh Tâm được xây dựng.
Trước chùa, Bát Bửu Phật đài xây dựng năm 1959, hoàn thành
năm 1961. Phật đài được kiến trúc hình bát giác, cao 3m,
tầng trên tôn trí tượng Phật Thích Ca cao 7m, nặng khoảng
4 tấn do điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tạc năm 1957 và
cư sĩ Ngô Chí Bình thỉnh từ chùa Xá Lợi về. Trải qua những
năm tháng chiến tranh, bom đạn đã tàn phá xóm làng, thiêu
rụi cả chùa Thanh Tâm, chỉ riêng ngôi Phật đài với kim thân
Đức Phật vẫn sừng sững nơi hoang vắng, nên người dân địa
phương đã gọi tòa di tích này là "Phật Cô Đơn".
Năm 1988. Thành hội Phật giáo TPHCM đã giao cho thượng tọa
Thích Thiện Bổn nhiệm vụ trụ trì, từng bước chỉnh trang
và xây dựng khu di tích. Đến nay, Bát Bửu Phật Đài đã trở
thành một khu tham quan, chiêm bái hấp dẫn, thu hút hàng
vạn người đến mỗi năm.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: Xã Tân Hiệp, H.Hóc Môn
Chùa Hoằng Pháp do cố
Hòa Thượng Ngộ Chân Tử sáng lập năm 1957. Nơi đây xưa
kia là một cánh rừng chồi.
Hiện nay, chánh điện có chiều ngang 18m, chiều dài 42m,
tổng diện tích xây dựng là 756m2, kiến trúc theo lối chữ
“công”. Tuy hình thức có mới nhưng vẫn mang dáng vẻ cổ
kính của chùa miền Bắc với góc đao cong vút, 02 tầng mái
ngói màu đỏ. Toàn bộ nền móng, đà, cột, trần, mái đều
đúc bêtông kiên cố, tường xây gạch, mặt ngoài dán gạch
men, mặt trong sơn nước. Nền lót gạch granite nhập từ
Tây Ban Nha. Toàn bộ cánh cửa, bao lam, án thờ đề làm
bằng gỗ quý, chạm trổ rất tinh vi.
Hai bên bậc cấp dẫn lên thềm tiền đình chánh điện là hai
con sư tử lớn. Hai bên cửa chánh điện là hai bức phù điêu
khắc tượng thần Kim Cang với vẻ mặt cương nghị, thân hình
mang dáng đẹp khỏe mạnh của người lực sĩ. Nội điện gồm
tiền Phật hậu Tổ. Tiền điện thờ đức Bẩn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật ngự trên tòa sen trong tư thế thiền định, chiều
cao khoảng 4,50m. Phía trên chung quanh vách tường là
07 bức phù điêu chạm khắc hình ảnh cuộc đời đức Phật từ
lúc xuất gia cho đến khi nhập niết bàn. Phía trên và dưới
bức phù điêu đối diện với tượng Phật là hai hàng chữ “Phật
Nhật Tăng Huy - Pháp Luân Thường Chuyển”. Trước án thờ
là bao lam bằng gỗ điêu khắc hình “cửu long chầu nguyệt”.
Phía trên bao lam là ba cuốn thư cũng bằng gỗ khắc chữ
Hán; cuốn ở giữa đề THIÊN NHƠN SƯ, hai cuốn hai bên đề
chữ TỪ BI và TRÍ TUỆ. Chùa Hoằng Pháp có khuôn viên rộng
lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh năm. Là địa điểm
rất lý tưởng đến sinh hoạt dã ngoại và cắm trại. Hàng
năm vào ngày 16/10 âm lịch, chùa tổ chức ngày húy kỵ cố
Hòa Thượng Ngộ Chân Tử rất trọng thể.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
Địa
chỉ: Xã Phú Mỹ Hưng, H.Củ Chi
Trên vùng đất nổi tiếng
của địa đạo Củ Chi năm xưa và ngay giữa lòng "tam giác
sắt" một thời rền vang bom đạn. Vào ngày 19/5/1993,
đảng bộ và nhân dân TP.Hồ Chí Minh đã tạo dựng nên công
trình: ĐỀN TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ BẾN DƯỢC - CỦ CHI. Ðền được
xây dựng để tưởng nhớ công ơn to lớn của đồng bào, chiến
sĩ đã chiến đấu, hy sinh trên vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn
- Gia Ðịnh; trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
chống Pháp và Mỹ. Là một công trình dành cho thế hệ mai
sau nhớ mãi, tri ân và tự hào.
Đền được khởi công vào ngày 19/5/1993 nhân kỷ niệm ngày
sinh lần thứ 103 của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính
yêu của dân tộc Việt Nam, trên một vùng đất rộng 7 ha trong
quần thể của khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi. Ngày 19/12/1995
đền khánh thành giai đoạn 1 và bắt đầu đón khách trong và
ngoài nước đến tưởng niệm, dâng hương và nghĩ về một lẽ
sống còn đã làm nên hồn thiêng dân tộc. Và Thành ủy, HĐND,
MTTQ TP.Hồ Chí Minh cũng đã chọn ngày 19/12 hằng năm là
ngày lễ hội tưởng niệm và tri ân các anh hùng liệt sĩ. Đền
được thiết kế như:
* Cổng tam quan: được thết kế theo phong cách cổ truyền
của dân tộc với các hàng cột tròn, trên lợp ngói âm dương.
Cổng có hoa văn, họa tiết, mái cong của những cổng đình
làng nhưng được cách tân bởi những vật liệu mới. Chính giữa
cổng tam quan là biển đề: Đền Bến Dược và trên các thân
cột là những câu đối của nhà thơ Bảo Định Giang:
Trải tấm lòng son vì
đất nước,
Đem dòng máu đỏ giữ quê hương
Lòng biết công ơn nhang thơm một nén,
Đời còn bóng dáng sao sáng ngàn năm
* Nhà văn bia: là một
nhà vuông có hai mái, lợp ngói, ở giữa đặt một tấm bia đá
cao 3m, ngang 1,7m, dày 0,25m, nặng 3,7 tấn. Tấm bia đá
này được lấy từ khối đá nặng 18 tấn ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)
và được các nghệ nhân đẽo gọt, chạm khắc những hoa văn độc
đáo của dân tộc.
* Đền chính: kiến trúc mang dáng dấp đền đài cổ của Việt
Nam, vừa tôn nghiêm, vừa tĩnh mịch. Điện thờ bố trí theo
hình chữ U: trung tâm là bàn thờ tổ quốc, chính giữa có
tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, phía trên ghi: Vì nước quên
mình. Tổ quốc ghi công. Đời đời ghi nhớ. Tả, hữu là hai
hương án thờ các bậc tiền hiền tiên liệt và đồng bào, chiến
sĩ đã hy sinh, chưa tìm được tên. Dọc theo các bậc tường
bên trái là tên liệt sĩ khối dân chính Đảng, các bậc tường
bên phải là tên liệt sĩ lực lượng võ trang.
* Tháp: thể hiện cho sự vươn lên đỉnh cao trong tương lai.
Tháp có 9 tầng cao 39m, trên vách tháp có nhiều hoa văn,
phù điêu thể hiện cuộc sống và chiến đấu của nhân dân Củ
Chi Đất thép thành đồng.
* Hoa viên: hoa viên phía sau đền là biểu tượng hồn thiêng
đất nước, cao 16m, nặng 243 tấn, được làm bằng đá granit
đặt giữa vườn hoa mặt hướng ra sông Sài Gòn. Biểu tượng
được thể hiện qua hình tượng một giọt nước mắt, khái quát
về sự đau thương mất mát của bao thế hệ người Việt Nam đã
chiến đấu hy sinh để giữ gìn đất nước.
* Tầng hầm: tầng hầm của đền có 9 không gian, với chủ đề
Sài Gòn Chợ Lớn kiên cường bất khuất, thể hiện lại các sự
kiện tiêu biểu trong giai đoạn chiến tranh của quân và dân
trong vùng tam giác sắt nói riêng và dân tộc Việt Nam nói
chung chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc và
bọn tay sai. Các sự kiện ấy được tái hiện sinh động bằng
những bức tranh hoành tráng, tượng, sa bàn, hiện vật, mô
hình sân khấu hóa, các loại hình nghệ thuật kiến trúc, điêu
khắc . . .
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------<Về đầu trang>
|